Jamie Weiss
Những năm 1960 là một thập kỷ đáng nhớ vì nhiều lý do – sự trỗi dậy của phản văn hóa, những bước đi đầu tiên của loài người trên Mặt trăng, phong trào dân quyền, thuốc tránh thai và cuộc cách mạng tình dục – và một cách phù hợp, đó cũng là một thập kỷ quan trọng đối với ngành đồng hồ. Thập niên 60 không chỉ chứng kiến sự ra mắt của nhiều chiếc đồng hồ đã trở thành những cái tên mang tính biểu tượng, mà thập kỷ này còn chứng kiến hai bước phát triển công nghệ quan trọng: bộ máy bấm giờ tự động đầu tiên cũng như đồng hồ thạch anh đầu tiên trên thế giới, sẽ tiếp tục làm thay đổi hoàn toàn ngành công nghiệp đồng hồ, gây ra cái gọi là “cuộc khủng hoảng thạch anh” trong những thập kỷ tiếp theo.
Đồng hồ thạch anh Seiko


Một nhà sản xuất đồng hồ được cho là đã thống trị thập niên 1960 hơn bất kỳ ai khác – Seiko. Thập kỷ này chứng kiến thương hiệu Nhật Bản đánh dấu nhiều dấu ấn đầu tiên: năm 1964, họ sản xuất những chiếc đồng hồ bấm giờ và đồng hồ bấm giờ đầu tiên trên thế giới của Nhật Bản; vào năm 1967, họ giành được vị trí thứ hai và thứ ba tại cuộc thử nghiệm đo thời gian của Đài thiên văn Neuchâtel, một thời điểm trưởng thành đối với ngành chế tạo đồng hồ Nhật Bản; vào năm 1969, họ là người đầu tiên đưa đồng hồ bấm giờ tự động ra thị trường, chiếc ref. 6139… Bất kỳ và tất cả những thứ đó đều xứng đáng có một vị trí trong danh sách này. Tuy nhiên, những thành tựu đó đều mờ nhạt so với Seiko Quartz Astron, chiếc đồng hồ đeo tay thạch anh thương mại đầu tiên trên thế giới.
Được ra mắt vào ngày Giáng sinh năm 1969 và có giá tương đương một chiếc Toyota Corolla, Quartz Astron đánh dấu sự khởi đầu của cuộc cách mạng thạch anh, không thể chối cãi là sự thay đổi mô hình quan trọng nhất mà ngành công nghiệp đồng hồ từng trải qua. Chính xác đến ±5 giây mỗi tháng hoặc một phút mỗi năm và có thời lượng pin hơn một năm, đây cũng là một thiết kế đẹp mắt. Quartz Astron cũng là biểu tượng cho sự chuyển đổi sau Thế chiến thứ hai của Nhật Bản thành cường quốc kinh tế và khoa học như ngày nay, với cái tên Astron vẫn tồn tại cùng với loạt đồng hồ năng lượng mặt trời GPS cải tiến của Seiko. Nó có thể không phải là một cái tên quen thuộc như những chiếc đồng hồ khác trong danh sách này, nhưng hiếm có chiếc đồng hồ nào chứng tỏ được sức ảnh hưởng sâu sắc như chiếc Astron nguyên bản.
Accutron Bulova


Trong khi những chiếc đồng hồ dựa trên bộ dao động tinh thể thạch anh cuối cùng đã bị vứt bỏ đồng hồ điện vào thùng rác lịch sử, chín năm trước khi Seiko Quartz Astron được phát hành, có một chiếc đồng hồ điện tử khác đã sẵn sàng thay đổi ngành công nghiệp đồng hồ: Bulova Accutron. Thay vì sử dụng bánh xe cân bằng, Accutron sử dụng một âm thoa, rung với tốc độ 360 lần mỗi giây, được điều khiển bởi hệ thống cuộn dây điện từ và chạy bằng pin khô không có tiếp xúc cơ học.
Điều này không chỉ làm cho nó mạnh mẽ và thiết thực hơn các thiết kế đồng hồ điện tử khác mà còn làm cho nó chính xác hơn. Với kim giây quét mượt mà và âm thanh điện tử đặc biệt, Accutron đã định nghĩa lại sự sang trọng và chế tạo đồng hồ – dù chỉ trong một vài năm.
Tham chiếu Omega Speedmaster. ST105.012


Trong khi cái tên Speedmaster xuất hiện lần đầu tiên vào những năm 1950, với phiên bản giới thiệu đầu tiên. CK2915 xuất hiện lần đầu vào năm 1957, không thể phủ nhận rằng tài liệu tham khảo quan trọng nhất của Speedmaster – và thực sự là một trong những chiếc đồng hồ quan trọng nhất trong lịch sử – là Speedmaster ST105.012, chiếc đồng hồ đầu tiên được đeo trên mặt trăng trong chuyến hạ cánh lên mặt trăng của tàu Apollo 11 vào năm 1969, được gắn vào cổ tay của Buzz Aldrin. Tham chiếu này chính là Moonwatch và nó đã đặt nền móng cho một trong những di sản lâu dài nhất trong ngành chế tác đồng hồ hiện đại.
Thực tế là vào năm 1965, Omega Speedmaster đã được NASA chính thức chứng nhận chuyến bay, đánh bại Breitling, Rolex, Longines và Hamilton để trở thành sự lựa chọn của NASA về thiết bị được cấp chính thức cho tất cả các sứ mệnh không gian có người lái. Cũng cần nhắc đến một mẫu Speedy khác từ những năm 50 đã trở nên nổi tiếng vào những năm 60: ref. CK 2998, được ra mắt chính thức vào năm 1959 nhưng đã trở thành chiếc Omega đầu tiên được đeo trong không gian vào năm 1962 khi Wally Schirra đeo chiếc đồng hồ bấm giờ khi ông quay quanh Trái đất trong sứ mệnh Mercury-Atlas 8.
Rolex Daytona


Những năm 1960 được chứng minh là một thập kỷ phát triển rực rỡ của Rolex, thương hiệu Thụy Sĩ tung ra nhiều chiếc đồng hồ đã trở thành biểu tượng: chiếc Cellini King Midas mang phong cách chiết trung, chiếc Explorer ref nguyên mẫu hiện nay. 1016, Sea-Dweller được tăng cường và thậm chí là bộ đệm Deep Sea Special, đi kèm với chuyến đi xuống đáy thành công đầu tiên của Rãnh Mariana. Tuy nhiên, không có phiên bản Rolex nào của thập niên 60 có sức ảnh hưởng hoặc phù hợp với văn hóa đại chúng như Cosmograph Daytona, mẫu đồng hồ trong những năm kể từ đó đã được chứng minh là mẫu đồng hồ được thèm muốn nhất của Crown.
Được phát triển với mục đích sử dụng cho môn thể thao đua xe, phiên bản gốc. 6239 ban đầu được giới tiếp thị Rolex gọi là “Le Mans”, được đặt theo tên của cuộc đua sức bền nổi tiếng của Pháp, với biệt danh Daytona gắn liền với năm 1965, ám chỉ đến Đường đua quốc tế Daytona của Florida. Năm 1965 cũng chứng kiến Daytona được trang bị mặt số “kỳ lạ” hoặc “Paul Newman”, vào thời điểm đó không phổ biến lắm nhưng đã phát triển để trở thành đại diện cho một số chiếc đồng hồ được thèm muốn nhất trên thế giới.
Heuer Carrera


Một chiếc đồng hồ khác của thập niên 60 được phát hành để tận dụng sự phổ biến ngày càng tăng của môn đua xe thể thao là chiếc Carrera mang tính biểu tượng của Heuer. Được đặt theo tên của cuộc đua đường trường Carrera Panamericana khét tiếng nguy hiểm những năm 50 và là đứa con tinh thần của Giám đốc điều hành Jack Heuer, chiếc Carrera ref đầu tiên. 2447 được lấy cảm hứng từ kiến trúc hiện đại và được thiết kế sao cho dễ đọc nhất, đồng thời nổi tiếng hơn một chiếc đồng hồ bấm giờ thể thao quan trọng khác của Heuer được phát hành vào những năm 1960, đồng hồ đeo tay Autavia.
Tránh sử dụng viền đồng hồ đo tốc độ bên ngoài để có thiết kế hợp lý hơn, Jack Heuer nhắm đến những tay đua quý ông, định vị nó như một chiếc đồng hồ bạn có thể đeo từ đường đua đến bữa tối. Một trong những cải tiến lớn của hãng là “vòng căng”: một vòng thép góc cạnh giữ mặt kính của đồng hồ cố định, cải thiện khả năng chống nước đồng thời mang lại chiều sâu hình ảnh lớn hơn (một đặc điểm thiết kế mà TAG Heuer đã áp dụng trở lại với Hộp kính Carrera hiện tại).
Grand Seiko đầu tiên


Đây có phải là gian lận để bao gồm một GS? Một cột mốc quan trọng khác của Seiko trong những năm 1960 là sự ra mắt của chiếc Grand Seiko đầu tiên. Xuất phát từ hệ thống cạnh tranh nội bộ có phần phức tạp của Seiko – với công ty Daini Seikosha sắp ra mắt dòng đồng hồ King Seiko và hãng Suwa Seikosha sắp ra mắt Grand Seiko, cũng như những phát triển khác như Quartz Astron đã đề cập trước đó trong bài viết này – Grand Seiko “First” được dự định trở thành, như Seiko nói, “chiếc đồng hồ ‘lý tưởng’ với các tiêu chuẩn về độ chính xác, độ bền và vẻ đẹp sẽ dẫn đầu thế giới.” Về bản chất, đây là bước đột phá thực sự đầu tiên của Seiko (và nói rộng hơn là của Nhật Bản) trong việc chế tạo một chiếc đồng hồ xa xỉ.
Là chiếc đồng hồ Nhật Bản đầu tiên được chứng nhận bởi Bureaux Officiels de Contrôle de la Marche des Montres ở Geneva (vào thời điểm đó là cơ quan thử nghiệm đồng hồ bấm giờ uy tín nhất thế giới), Grand Seiko “First” đã đặt ra một tiêu chuẩn mới cho sự tinh tế trong chế tạo đồng hồ Nhật Bản, cuối cùng truyền cảm hứng cho việc tạo ra cả một thương hiệu phụ. Nó có thể không nổi tiếng bên ngoài quê hương Nhật Bản, nhưng ngày nay, thật dễ dàng để nhận ra tầm quan trọng của nó.
Heuer Monaco


Năm 1969, ba mối quan tâm đua nhau phát hành chiếc đồng hồ bấm giờ tự động đầu tiên trên thế giới: Zenith, Seiko và tập đoàn Chronomatic gồm Heuer, Hamilton, Buren, Dubois Depraz và Breitling. Cuối cùng, Zenith sẽ là người đầu tiên công bố phong trào của họ (do đó “El Primero” – “The First”)… Mặc dù thực tế Seiko là người đầu tiên đưa một chiếc ra thị trường, nhưng người giới thiệu. 6139, mặc dù ban đầu chỉ có ở Nhật Bản. Tuy nhiên, bộ máy Chronomatic – và những chiếc đồng hồ sử dụng nó – vẫn đại diện cho một số bước phát triển đồng hồ quan trọng nhất của thập niên 1960.
Hamilton và Breitling gọi bộ máy là Chronomatic, trong khi Heuer gọi nó là Calibre 11, và đặt nó vào một số đồng hồ, chẳng hạn như Autavia và, bạn đoán ra, Monaco, có lẽ là chiếc đồng hồ Chronomatic nổi tiếng nhất và đã trở thành một thiết kế đồng hồ mang tính biểu tượng theo đúng nghĩa của nó. Monaco là chiếc đồng hồ bấm giờ tự động hình vuông đầu tiên trên thế giới – một thách thức kỹ thuật mà Heuer đã vượt qua một cách đầy tự tin – Monaco thực sự trở nên nổi tiếng vào những năm 70 khi nó xuất hiện trên cổ tay của Steve McQueen vào năm Le Mans (1971). Thật hoang đường khi nghĩ rằng cả Monaco và Carrera, đặc biệt là những mẫu xe nổi tiếng nhất của (TAG) Heuer, đều xuất hiện vào những năm 60…
Zenith El Primero


Như tôi vừa đề cập, El Primero, Chronomatic và Seiko 6139 đều có thể khẳng định là một trong những bộ máy bấm giờ tự động đầu tiên. Tuy nhiên, El Primero (vừa là bộ máy vừa là đồng hồ) đã được chứng minh là biểu tượng nhất trong ba loại này. Đây cũng là bộ máy có nhịp độ cao duy nhất trong ba bộ máy, chạy ở tần số cao hơn 36.000 rung động mỗi giờ – cho phép đo 1/10 giây cũng như giúp kim đồng hồ bấm giờ của nó quét cực kỳ mượt mà. 60 năm sau, nguồn gốc của phong trào El Primero tiếp tục tạo sức mạnh cho những sáng tạo hiện đại của Zenith và ngay cả theo tiêu chuẩn hiện đại, El Primero vẫn là một phong trào tuyệt vời.
Câu chuyện cổ tích về sự hồi sinh của nó cũng ấn tượng không kém: đối mặt với cuộc khủng hoảng thạch anh năm 1975, Zenith quyết định ngừng sản xuất El Primero. Tuy nhiên, thợ đồng hồ Charles Vermot đã tự mình bí mật bảo vệ bộ máy bằng cách thu thập tất cả các kế hoạch kỹ thuật và công cụ rồi giấu chúng trên gác mái của nhà sản xuất, Vermot chỉ tiết lộ bí mật của mình vào những năm 1980 khi nhu cầu về bộ máy chronograph cơ học quay trở lại (cũng như một đơn đặt hàng lớn từ Rolex để cung cấp bộ máy cho chiếc Daytona). Cho đến ngày nay, El Primero không chỉ cung cấp quyền lực cho phần lớn đồng hồ Zenith nhưng đã được sử dụng rộng rãi trong LVMH bởi các thương hiệu như Dior.
